3. CLOS network – Sự hồi sinh của một kiến trúc
Như phân tích ở bài trước, giải pháp cho kiến trúc mạng vẫn chưa được tối ưu, vì thế người ta phải tìm một giải pháp khác và lúc này người ta tìm về một kiến trúc cũ có tên gọi là Clos-Network.
Năm 1938, nhà phát minh Edson Erwin đã đưa ra mô hình chuyển mạch đa tầng (Multistage switching system). Đến năm 1952, nhà nghiên cứu Charles Clos chính thức áp dụng mô hình này cho hệ thống chuyển mạch kênh (Circuit Switching) của mạng điện thoại. Và từ đó, mô hình chuyển mạch này mang tên gọi là “CLOS Network”.
Mô hình này gồm có 3 chặng (stage) từ khi dữ liệu đi vào cho tới khi đi ra. Các chuyên gia về mạng máy tính đã áp dụng mô hình này vào mạng chuyển mạch gói và đặt tên mới là Spine-Leaf hay còn gọi là 2-Tiers Network.
Mô hình này gồm có 2 tầng, các Switch mỗi tầng không nối với nhau. Chúng ta dễ dàng thấy rằng băng thông và độ trễ từ Server A đến Server B và Server C là như nhau. Hai Server bất kỳ nối với nhau đều đi qua một hop duy nhất. Để tăng băng thông Uplink thì chỉ cần thêm 1 Switch ở tầng Spine, việc thêm Switch ở tầng Leaf cũng đơn giản, hệ thống cáp cũng tường minh, dễ quản lý. Kiến trúc này còn được gọi là Layer 2 Fabric.
Dù cải thiện về mô hình kết nối, tốc độ, độ trễ, … nhưng Clos Network không giải quyết được vấn đề Spanning Tree chính vì thế không thể cải thiện tốc độ và khả năng mở rộng. Để tối ưu cho mô hình Clos người ta đã bổ sung thêm giao thức mới cho phép:
Mục đích ở đây là giúp loại bỏ Spaning Tree và cho phép cân bằng tải thông qua kỹ thuật ECMP (Equal-cost multi-path routing) của Routing protocol.
Có 2 giao thức chuẩn được đề xuất cho việc này: Chuẩn Transparent Interconnection of Lots of Links (TRILL) do IETF đề xuất và đã được phê duyệt vào tháng 7/2011 (RFC 5556) và chuẩn Shortest Path Bridging (SPB) do IEEE đề xuất nhưng chưa được phê duyệt. Các chuẩn này còn được gọi là Layer 2 – Multipath (L2MP).
Dựa trên các đề xuất này các hãng đã đưa ra các giải pháp riêng của mình:
Chúng ta có thể thấy rằng, kiến trúc Clos Network kết hợp với kỹ thuật L2-Multipath đã giúp loại bỏ hoàn toàn STP, bảo đảm mở rộng cũng như cải thiện tốc độ cho các kết nối mạng nhưng giải pháp này bị “khóa cứng” (locked) vào thiết bị của các hãng. Do không theo một chuẩn chung nào nên không có sự tương thích giữa thiết bị của các hãng, điều này làm cho giải pháp L2-Multipath không được chào đón và triển khai đại trà. Có thể nói việc sử dụng phần cứng để giải quyết vấn đề lại sinh ra vấn đề khác.
Điều này làm cho các hãng sản xuất đi tìm một giải pháp khác. Do thiết bị phần cứng không giải quyết vấn đề tương thích nên họ hướng vào việc thay đổi phần mềm. Chính vì thế đã xuất hiện 2 chuẩn mới liên quan đó là VXLAN (Virtual Extensible LAN) và NV-GRE (Network Virtualization using Generic Routing Encapsulation).
4. IP Fabric – Một giải pháp đáp ứng tất cả các yêu cầu
Trong các mạng LAN, kỹ thuật VLAN được dùng để phân tách mạng (network isolation) thành các mạng ảo nhằm tăng cường bảo mật và giảm kích thước Broadcast domain. Kỹ thuật trunking cho phép mở rộng VLAN ra các Switch phân tán, là môi trường Layer 2 thuần túy. Việc mở rộng VLAN thông qua môi trường Layer 3 là bất khả thi và một điều nữa là VLAN-ID chỉ có 12 bit nên tối đa chỉ có 4096 VLAN cho mỗi hệ thống mạng.
Trước sự phát triển của công nghệ ảo hóa, cloud và phân tán hệ thống mạng, xuất hiện những yêu cầu mới như vMotion, HA, migrate, … đòi hỏi phải thực hiện tại Layer 2. Vì thế, cần tìm giải pháp cho việc mở rộng VLAN thông qua môi trường Layer 3 hay nói cách khác cho phép mở rộng môi trường Layer 2 thông qua Layer 3.
Hiện nay có 2 giao thức tạo đường hầm (Tunneling protocol) phổ biến cho phép thực hiện điều này đó là NV-GRE (RFC-7637) và VXLAN (RFC-7348). Dù chung mục tiêu nhưng chúng có 3 điểm khác nhau:
VXLAN & NV-GRE header đều dùng 24 bit để gán ID cho các mạng ảo nên cho phép đến 16 triệu mạng ảo nối với nhau, khắc phục giới hạn 4096 VLAN.
Hiện nay số lượng các nhà sản xuất phần cứng đã nghiêng về chuẩn VXLAN rất nhiều, có thể nói VXLAN là một chuẩn phát triển từ thực tế (De-facto standard). Nhóm IETF NVO3 (Network Virtualization Over layer 3) cũng đang nghiên cứu chuẩn mới có tên là GENEVE (Generic Network Virtualization Encapsulation) dựa trên nền tảng của giao thức VXLAN.
Vậy VXLAN cho phép mở rộng môi trường Layer 2 thông qua môi trường Layer 3 vì thế sẽ cho phép thực hiện cân bằng tải qua nhiều kết nối. Việc kết hợp công nghệ VXLAN với Clos Network tạo ra một kiến trúc tối ưu có tên là IP Fabric.
Trong IP Fabric các Leaf & Spine đều hoạt động ở Layer 3 và sử dụng Routing protocol để cân bằng tải qua nhiều kết nối. Các Leaf đều có Tunnel trực tiếp để truyền tải thông tin Layer 2. Giải pháp này giải quyết triệt để vấn đề của Spaning Tree, Multi-chassic LAG và Layer 2 Multipath.
5. VXLAN BGP EVPN – Một xu thế mới đang được chào đón
Đối với VXLAN, các gói tin BUM (Broadcast, Unknow unicast, Multicast) vẫn quảng bá tự do như trong các Broadcast domain và có nghĩa việc học địa chỉ MAC đối với VXLAN vẫn như đối với VLAN. Một hạn chế khác là việc cấu hình VXLAN tunnel (VTEP-VXLAN Tunnel End Point) được thực hiện bằng tay nên rất khó quản lý nếu số lượng Leaf lớn.
Nói một cách khác VXLAN chỉ được xem như là một Data-plane dùng để vận chuyển dữ liệu thuần túy, điều còn thiếu cho giải pháp IP Fabric là một giao thức đóng vai trò Control-plane nhằm tự động thiết lập các Tunnel và tự trao đổi MAC học được cho nhau mà không cần chờ gói tin ARP broadcast.
Lúc này giao thức MP-BGP (Multi protocol BGP) được áp dụng như cách thức nó đã được áp dụng thành công trong các hệ thống mạng MPLS. Vì thế giải pháp này còn được gọi là VXLAN BGP EVPN và có thể nói đây là giải pháp triệt để nhất hiện nay áp dụng cho những hệ thống mạng hoặc Data center lớn hoặc nằm phân tán.
6. Tham khảo
http://wikibon.org/wiki/v/Network_Fabrics,_L2_Multipath_and_L3
https://www.networkworld.com/article/2226122/clos-networks-what-s-old-is-new-again.html
https://www.sdxcentral.com/articles/news/aristas-single-tier-spline-targets-enterprise/2013/11/
https://networkingnerd.net/2016/05/11/the-death-of-trill/
https://www.networkers-online.com/blog/2016/08/classic-dc-m-lag/
https://cds.cern.ch/record/2315700/files/CERN-THESIS-2018-035.pdf
Nguồn sưu tầm từ: cademy.vnnic.vn